Bối cảnh Đế_quốc_Tây_La_Mã

Khi Cộng hòa La Mã mở rộng, nó đã đạt đến một điểm mà chính quyền trung ương ở Rome đã không thể cai trị hiệu quả các tỉnh ở xa. Thông tin liên lạc và giao thông vận tải thực sự là một vấn đề khó trong phạm vi rộng lớn của đế chế. Tin tức về các cuộc xâm lược, những cuộc nổi dậy, thảm họa tự nhiên, hoặc bùng phát dịch bệnh được vận chuyển bằng tàu hoặc thư tín, thường đòi hỏi nhiều thời gian để có thể đến Rome và cho việc thực hiện mệnh lệnh của Rome tới địa bàn tỉnh xuất xứ. Vì lý do này, thống đốc tỉnh đã trên thực tế đã có toàn quyền cai trị trên danh nghĩa của Cộng hòa La Mã.

Trước khi thành lập chính thể đế quốc, các vùng lãnh thổ của nước Cộng hòa La Mã đã được phân chia giữa các thành viên của chế độ tam hùng lần thứ hai: Mark Antony, OctavianMarcus Aemilius Lepidus. Antonius đã nhận được các tỉnh ở phía đông: Achaea, MacedoniaEpirus (Hy Lạp, Albania và bờ biển của Croatia ngày nay), Bithynia, Pontus và châu Á (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), Syria, Síp, và Cyrenaica. Những vùng đất này trước đó đã được chinh phục bởi Alexander Đại đế, do đó, phần nhiều tầng lớp quý tộc có gốc gác Hy Lạp. Toàn khu vực này, đặc biệt là các thành phố lớn, phần lớn đã được đồng hóa vào nền văn hóa Hy Lạp, tiếng Hy Lạp thường được sử dụng như là Franca lingua.

Octavian nhận được các tỉnh La Mã ở phía tây: Italia, Gaul (nước Pháp hiện nay), Belgica (vùng đất ngày nay là Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) Gallia, và Hispania (hiện nay là Tây Ban NhaBồ Đào Nha).[7] Những vùng đất này cũng bao gồm các thuộc địa của người Hy Lạp và Carthaginia nằm ở các khu vực ven biển, mặc dù các bộ tộc Celt như người Gauls và Celtiberia nắm sự chi phối về văn hóa. Lepidus nhận được các tỉnh nhỏ của châu Phi (Tunisia ngày nay). Octavian sớm chiếm lấy châu Phi từ tay Lepidus, trong khi thêm Sicilia (Sicilia hiện nay) vào lãnh địa của mình.

Sau khi đánh bại Marcus Antonius, Octavian đã kiểm soát một Đế chế La Mã hoàn toàn thống nhất.

Khởi nghĩa, nổi loạn và tranh giành quyền lực chính trị

Những cuộc khởi nghĩa nhỏ và các cuộc nổi dậy là những sự kiện khá phổ biến trên toàn đế quốc. Các Bộ tộc và thành phố bị chinh phục sẽ nổi dậy, và các quân đoàn sẽ được tách ra để đè bẹp cuộc khởi nghĩa. Trong khi quá trình này rất đơn giản trong thời bình, nó có thể sẽ phức tạp hơn trong thời chiến, như ví dụ trong cuộc đại khởi nghĩa của người Do Thái.

Trong một chiến dịch quân sự toàn diện, các quân đoàn, dưới sự chỉ huy của các vị tướng như Vespasianus, trở nên nhiều hơn rất nhiều. Để đảm bảo sự trung thành của một chỉ huy, một hoàng đế thực dụng có thể giữ một số thành viên của gia đình họ làm con tin. Hoàng đế Nero đã giữ lại DomitianQuintus Petillius Cerialis, thống đốc của Ostia, tương ứng là người con trai thứ và người em rể của Vespasian. Sự cai trị của Nero chỉ kết thúc khi lực lượng vệ binh hoàng gia làm phản, những người đã bị mua chuộc bởi Galba.

Kẻ thù chính ở phía tây của đế chế được cho là các bộ lạc Đức nằm ở bên kia bờ các con sông Rhine và sông Danube. Augustus đã cố gắng để chinh phục họ, nhưng cuối cùng đã bị đẩy lùi sau thất bại ở trận rừng Teutoburg.

Đế chế Parthia, ở phía đông, mặt khác, lại quá xa và hùng mạnh để có thể chinh phục. Bất kỳ cuộc xâm lược nào của người Parthia đều bị ngăn chặn và thường đánh bại, tương tự như vậy, người Parthia cũng đã đẩy lùi một số nỗ lực xâm lược của người La Mã, tuy nhiên, ngay cả sau những cuộc chiến tranh chinh phục thành công - chẳng hạn như được thực hiện bởi TrajanSeptimius Severus - những vùng lãnh thổ xa xôi đã được từ bỏ để ngăn chặn tình trạng bất ổn và cũng để đảm bảo một nền hòa bình lâu dài và bền vững hơn với người Ba Tư.

Kiểm soát biên giới phía tây của Rome tỏ ra là dễ dàng hơn bởi vì nó là tương đối gần và còn vì sự chia rẽ giữa các kẻ thù người Đức, tuy nhiên, kiểm soát toàn bộ cả hai đường biên giới trong chiến tranh thực sự khó khăn. Nếu hoàng đế gần biên giới ở phía đông, cơ hội sẽ là lớn cho bất kì một vị tướng đầy tham vọng nào đó nổi loạn ở phía tây và ngược lại.

Khủng hoảng của thế kỉ thứ ba

Đế quốc La Mã vào năm 268

Mọi thứ bắt đầu vào ngày 18 tháng 3, năm 235, với vụ ám sát Hoàng đế Alexander Severus, Đế chế La Mã chìm vào một cuộc nội chiến kéo dài 50 năm, mà ngày nay gọi là thời kì khủng hoảng của thế kỷ thứ ba. Sự nổi lên của triều đại Sassanid hiếu chiến ở Parthia tạo ra một mối đe dọa lớn đối với Rome ở phía đông. Minh chứng rõ nhất cho mối đe dọa ngày càng tăng lên đó là việc hoàng đế Valerian đã bị bắt bởi Shapur I vào năm 259. Con trưởng và người thừa kế chính thức của ông,Gallienus, đã lên kế vị và tiếp tục tiến hành cuộc chiến ở biên giới phía đông. Người con trai của Gallienus, Saloninus, và pháp quan thái thú Silvanus thì lại có mặt ở Colonia Agrippina (hiện nay là Köln) để củng cố lòng trung thành của các quân đoàn địa phương. Tuy nhiên, Marcus Cassianius Latinius Postumus, tổng đốc chính quyền địa phương các tỉnh Đức - nổi loạn, và cuộc tấn công của ông ta vào Colonia Agrippina dẫn đến cái chết của Saloninus và vị thái thú. Trong sự nhầm lẫn sau đó, một nhà nước độc lập được biết đến như là Đế chế Gallic xuất hiện.

Kinh đô của nó là Augusta Treverorum (Trier hiện nay), và nó nhanh chóng mở rộng sự kiểm soát đối với các tỉnh Germania và Gaul và trên toàn bộ HispaniaBritannia. Nó có viện nguyên lão riêng của mình, và một phần danh sách các chấp chính quan của nó vẫn còn tồn tại. Nó duy trì tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa La Mã, và quan tâm nhiều hơn đến việc chiến đấu các bộ lạc người Đức hơn là đối với người La Mã. Tuy nhiên, trong triều đại của Claudius Gothicus (268-270), một phần rộng lớn của đế chế Gallic đã được khôi phục lại dưới sự cai trị của La Mã. Vào cùng một khoảng thời gian, một số tỉnh phía đông ly khai theo Đế chế Palmyra, dưới sự cai trị của Nữ hoàng Zenobia.

Năm 272, Hoàng đế Aurelian cuối cùng đã cố gắng để giành lại Palmyra và lãnh thổ của nó quay về với đế quốc. Với việc phía đông đã an toàn, mọi sự chú ý của ông lúc này đã được chuyển sang phía tây, tiêu diệt đế chế Gallic một năm sau đó. Bởi vì có một thỏa thuận bí mật giữa Aurelian và Hoàng đế Gallic Tetricus I và con trai của ông Tetricus II, quân đội Gallic đã nhanh chóng bị đánh bại. Đổi lại, Aurelian tha mạng cho họ và ban cho hai kẻ phản loạn những vị trí quan trọng ở Ý.

Tứ đầu chế

Bài chi tiết: Tứ đầu chế
Sự phân chia đế quốc dưới chế độ Tứ đầu chế.

Các đường biên giới bên ngoài khác chủ yếu ổn định trong phần còn lại của thời kì khủng hoảng của thế kỷ thứ ba, mặc dù, vào giai đoạn giữa cái chết của Aurelian trong năm 275 và sự lên ngôi của Diocletianus mười năm sau đó, ít nhất tám hoàng đế hoặc nhiều hơn bị giết hại, phần nhiều bị ám sát bởi quân đội riêng của họ.

Dưới thời Diocletianus, sự phân chia chính trị của Đế chế La Mã đã bắt đầu. Năm 285, ông thăng cho Maximianus lên hàng ngũ Augustus (Hoàng đế) và giao cho ông ta quyền kiểm soát của khu vực phía tây của đế chế. Năm 293, GaleriusConstantius Chlorus lần lượt được bổ nhiệm là cấp dưới của họ (Caesars), tạo ra chế độ tứ đầu chế đầu tiên. Hệ thống hiệu quả này phân chia đế chế thành bốn khu vực chính và tạo ra các kinh đô riêng biệt bên cạnh Rome như một cách để tránh tình trạng nội chiến bất ổn đã đánh xảy ra vào thế kỷ thứ 3. Ở phía tây, kinh đô của Maximianus nằm tại Mediolanum (tại Milan) và của Constantius là Trier. Ở phía đông, kinh đô là SirmiumNicomedia. Ngày 01 tháng 5 năm 305, cả hai vị Augusti đều thoái vị, và hai Caesar tương ứng của họ đã được thăng lên hàng ngũ Augusti và bổ nhiệm hai Caesars khác, tạo ra chế độ tứ đầu chế thứ hai.

Constantinus Đại đế

Bài chi tiết: Constantinus Đại Đế

Tuy nhiên, Hệ thống tứ đầu chế nhanh chóng bị sụp đổ khi mà hoàng đế Tây La Mã Constantius qua đời đột ngột trong năm 306, và con trai của ông Constantinus Đại Đế đã được tuyên bố là Augustus của phía tây bởi các quân đoàn ở Anh. Một cuộc khủng hoảng tiếp theo sau đó xảy ra khi một số kẻ cố gắng để tranh đoạt quyền cai trị một nửa phía tây. Năm 308, Augustus phía đông, Galerius, đã sắp xếp một cuộc họp tại Carnuntum mà làm sống lại chế độ Tứ đầu chế bằng cách phân chia phía tây giữa Constantine và một người khác tên là Licinius. Mặc dù vậy, Constantinus quan tâm nhiều hơn đến việc chinh phuc lại toàn bộ đế chế. Thông qua một loạt các trận đánh ở phía đông và phía tây, Licinius và Constantine đã ổn định các phần tương ứng của Đế chế La Mã vào năm 314, và bắt đầu cạnh tranh để trở thành người duy nhất kiểm soát một nhà nước thống nhất. Cuối cùng Constantine đã giành được chiến thắng vào năm 324 sau khi đánh bại Licinius trong trận Chrysopolis.

Lần phân chia thứ hai

Constantius đã được sinh ra vào năm 317 tại Sirmium, Pannonia. Ông ta là con trai thứ ba của Constantine Đại đế, và là người con thứ hai với Fausta, người vợ thứ hai của ông, con gái của Maximian. Constantius đã được phong làm Caesar bởi cha mình vào ngày 13 tháng 11 năm 324.[8] Lúc này Đế chế La Mã đang nằm dưới sự cai trị của một Hoàng đế duy nhất, nhưng, với cái chết của Constantine vào năm 337, cuộc nội chiến đã nổ ra giữa ba người con trai của ông, phân chia đế chế thành ba phần khác nhau. phía tây đã được thống nhất trong năm 340 dưới sự cai trị của Constans, người sau đó bị ám sát vào năm 350 theo lệnh của Magnentius, kẻ cướp ngôi, sau khi Magnentius thua trận Mursa Major và buộc phải tự tử, đế quốc đã được thống nhất hoàn toàn một lần nữa vào năm 353, dưới sự cai trị của Constantius II.

Constantius II tập trung hầu hết quyền lực của mình ở phía đông và được coi là hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Byzantine. Dưới sự cai trị của ông, thành phố Byzantium - chỉ mới được tái lập lại với tên Constantinopolis- đã thự sự được xây dựng như một kinh đô. Năm 361, Constantius II bị bệnh và mất, và người cháu nội của Constantius Chlorus, Julianus, người đã từng là của Caesar của Constantius II, đã lên nắm quyền. Julianus sau đó đã bị giết chết trong trận Samarra vào năm 363 khi chống lại Đế chế Ba Tư và đã được kế vị bởi Jovianus, người đã cai trị một thời gian ngắn cho đến năm 364.

Lần phân chia cuối cùng

Sự phân chia đế quốc La Mã sau cái chết của Theodosius,khoảng năm 395 SCN,đường biên giới của đế quốc La Mã vẽ đè lên biên giới của các quốc gia ngày nay
  Đế quốc Tây La Mã
  Đế quốc Đông La Mã (Đế quốc Byzantine)

Sau cái chết của Jovianus, Valentinianus I đã trở thành Hoàng đế vào năm 364. Ông ngay lập tức chia đế quốc một lần nữa, nửa phía đông giao cho Valens, em trai của ông. Sự ổn định đã có được ở cả hai nửa, hoặc, vì các cuộc xung đột với các lực lượng bên ngoài ngày càng gia tăng. Trong năm 376, người Visigoth, khi đang chạy trốn người Hun, đã được phép vượt qua sông Danube, và định cư ở khu vực Balkan bởi chính quyền phía đông. Sự ngược đãi họ đã gây ra một cuộc nổi dậy quy mô lớn, và năm 378, họ gây ra một thất bại làm què quặt quân đội chính quy của Đông La Mã trong trận Adrianople, trong đó Valens cũng chết trận. Sau khi cướp bóc các vùng nông thôn, họ chính thức trở thành foederati.

Trong năm 379, con trai và người kế vị Valentinian I, Gratianus đã từ chối mặc áo choàng của quan tư tế tối cao (Pontifex Maximus), và trong năm 382 ông ta đã bãi bỏ quyền của các thầy tế đa thần giáo và loại bỏ bàn thờ đa thần giáo khỏi nghị viện, một quyết định mà gây ra sự bất mãn giữa các tầng lớp quý tộc theo truyền thống đa thần giáo La Mã. Theodosius I sau đó ra lệnh cấm trên các tôn giáo đa thần bản địa, tiếp tục coi Kitô giáo là tôn giáo chính thức của đế quốc.

Tình hình chính trị cũng không ổn định. Năm 383, một vị tướng quyền lực và nhiều tiếng tăm tên là Magnus Maximus chiếm đoạt quyền lực ở phía tây và buộc người em cùng cha của Gratian, Valentinian II chạy trốn về phía đông xin sự trợ giúp, sau đó Hoàng đế phía đông, Theodosius I đã nhanh chóng khôi phục lại quyền lực cho ông. Năm 392, viên pháp quan thái thú đa thần giáo và gốc Frank, Arbogast đã ám sát Valentinian II và tuyên bốị ủng hộ một nguyên lão vô danh tên là Eugenius lên làm Hoàng đế.

Cuộc nổi loạn này đã bị dập tắt trong năm 394 bởi Theodosius I, người mà sau đó một thời gian ngắn đã cai trị một đế chế thống nhất cho đến khi ông qua đời năm 395. Ông là vị Hoàng đế cuối cùng đã cai trị cả hai phần của Đế chế La Mã cũ. Arcadius, người con trai cả của ông được thừa kế nửa phía đông trong khi Honorius nhỏ tuổi hơn có được một nửa phía tây. Cả hai đều đang còn ít tuổi, do đó Honorius đã được đặt dưới sự giám hộ của viên Magister militum có một nửa dòng máu La Mã một nửa là người rợ, Flavius ​​Stilicho, trong khi Rufinus nắm quyền hành phía sau ngai vàng ở phía đông. Rufinus và Stilicho là đối thủ của nhau, và sự bất đồng giữa triều đình phía đông và phía tây liên quan đến quyền sở hữu vùng Illyricum đã được khéo léo khai thác bởi vua Goth, Alaric I, người mà đã một lần nữa nổi loạn sau cái chết của Theodosius I.

Stilicho đã có thể bảo vệ Ý chống lại người Goth xâm lược, nhưng ông đã không thể ngăn được người Vandal, Alan, Suevi xâm lược Gaul với số lượng lớn. Stilicho sau đó đã trở thành nạn nhân của những âm mưu triều chính ở Ravenna - nơi mà triều đình Hoàng gia phía tây cư trú từ năm 402 - và ông ta đã bị hành quyết vì tội phản quốc năm 408. Trong khi nửa phía đông bắt đầu phục hồi chậm chạp và dần được củng cố, nửa phía tây bắt đầu sụp đổ hoàn toàn.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Tây_La_Mã http://www.newscientist.com/article/dn19968-fall-o... http://www.roman-empire.net //dx.doi.org/10.2307%2F1170959 //www.jstor.org/stable/1170959 http://www.roman-emperors.org/constaii.htm http://www.roman-emperors.org/impindex.htm http://en.wikisource.org/wiki/Nicene_and_Post-Nice... http://books.google.com.vn/books?id=DgnrxCb51xoC&d... http://books.google.com.vn/books?id=EdBEHD4XQ-0C&p... http://books.google.com.vn/books?id=qOEu4ALwR-IC&p...